samedi 27 mars 2010

Ký Sự của cha Vachet : 10/11

Đức cha Lambert viếng thăm Đàng Trong lần đầu
Chương X
Rời Hội An



Rời Hội An.
Mấy ông giáo dân vị vọng xứ Nước Mặn, nơi Đức cha Bêrytê đã bị bệnh, đi theo chúng tôi một thời gian lúc chúng tôi rời đó ra đi. Họ thấy được những việc lành chúng tôi làm tại những nơi chúng tôi đi qua. Trở về xứ, họ phúc trình ra rất tích cực nên người ta viết thư đến Đức cha Bêrytê tha thiết xin ngài hãy trở lại qua đó lúc ngài muốn quay về Xiêm La. Người ta thưa với ngài rằng thật là không công bình khi ngài không ban sự hiện diện và sự giúp đỡ của ngài cho xứ của họ. Bởi vì xứ của họ chỉ được vinh dự tiếp ngài với nỗi ưu phiền vì ngài đau bệnh, chẳng được hưởng lòng nhiệt thành của ngài. Lời kêu van đó được diễn tả bằng những lời lẽ rất cảm động khiến ngài không còn cách nào từ chối được.Chúng tôi lên thuyền xuôi dòng sông ngày 15.02.1672, với ý định làm vui lòng những người dân trung hậu đó.


Thoát một nguy hiểm.

Chúng tôi gặp gió ngược suốt 5 ngày trời. Vào những ngày đó, Thiên Chúa đã giải cứu chúng tôi khỏi một cơn nguy hiểm lớn. Người ta đã chặn con thuyền của chúng tôi tại một hải quan. Người ta hỏi ông thủy thủ chính xem ông có chở người khách nước ngoài nào không. Hơi kinh ngạc trước câu hỏi đó, ông ta cũng cố hết sức để trả lời thoát thân theo khả năng mình. Tuy nhiên, chúng tôi qua được. Nhưng chúng tôi vừa chớm đi xa được khoảng một tầm súng bắn thì người ta bắt chúng tôi phải quay trở lại. Vài nhân viên vào con thuyền chúng tôi để thăm viếng. Nếu họ tinh mắt hơn, chúng tôi đã bị khám phá ra và gặp nguy hiểm nặng nề rồi, bởi vì sự việc sẽ được tấu trình lên nhà vua, chỉ duy có Chúa mới biết những sự gì sẽ xảy ra sau đó. Quả thực là chúng tôi đã cải dạng thành người đi buôn. Nhưng ngoài chuyện chúng tôi không có giấy thông hành, người ta còn dễ dàng nhận ra chúng tôi, nếu người ta mở các gói hành lý của chúng tôi ra và thấy những đồ lễ của chúng tôi. Có thể họ là những người có đạo, bởi vì nếu họ là người ngoại, họ đã khám xét rất kỹ lưỡng rồi. Cuối cùng, sau nhiều vòng đi và vòng lại, chúng tôi xong được chuyện nhờ một chút tiền và rượu bản xứ.


Trở lại Quảng Ngãi.

Ngay khi thoát ra khỏi tay họ, chúng tôi chỉ còn nghĩ tới chuyện phải tới được, sớm nhất có thể, con thuyền mà chúng tôi đã thuê cho hết phần còn lại của chuyến đi Đàng Trong. Chúng tôi đi qua trước nhiều hải quan mà không ai hỏi han gì chúng tôi. Chúng tôi ra tới cửa sông. Sau mấy ngày nắm chờ gió thuận tại đó, chúng tôi ra được ngoài biển.Nhưng gió sớm thay đổi, trở nên vũ bão, khiến chúng tôi phải quay vào đất liền để trú thân tại một vài vùng vịnh mà người ta gập thấy đầy dẫy dọc bờ biển. Chúng tôi ở lại đó không bao lâu, vì chúng tôi mong ước mau đến được bến cảng chính của xứ Quảng Ngãi. Chúng tôi hối thúc các thủy thủ tiếp tục con đường cho dù thời tiết tồi tệ. Họ đã làm để cho chúng tôi vui lòng và đã đưa chúng tôi đến bến cảng mà chúng tôi muốn đến cách bình an.Rất nhiều con thuyền đã ra biển cùng ngày hôm đó với chúng tôi, nhưng đã không gặp may như chúng tôi. Có những con thuyền đã tới nơi sau chúng tôi trong tình trạng thảm hại : buồm thì bay mất, cột buồm thì bị gẫy và bánh lái thì bị bể. Có những con thuyền khác thì bị vỡ đắm ngay trên những tảng đá do sóng biển xô dạt thuyền vào. Có 6 người cùng một con thuyền đã bị tử nạn. Xem đó, tôi không biết phải cảm phục sao cho đủ sự quan phòng của Thiên Chúa trên chúng tôi. Bởi lẽ, cứ theo vẻ bề ngoài thì đúng ra con thuyền của chúng tôi đã bị nạn hơn là những con thuyền khác. Lý do là các thủy thủ của chúng tôi luôn giữ những cánh buồm lớn dù gió thật dữ dội, thay vì dùng những cánh buồm nhỏ như người khác để dễ thích ứng. Tuy nhiên, xem ra họ cẩn thận hơn chúng tôi, nhưng chúng tôi lại may mắn hơn họ.


Dừng chân tại Nước Mặn.

Xuống thuyền, chúng tôi hỏi các chú học trò trẻ ở đâu. Các chú này phải đợi chúng tôi tại một bến cảng nọ để cùng chúng tôi sang Xiêm La. Một người trong nhóm của họ mà họ đã cố tình để lại đó đã báo cho chúng tôi rằng, theo ý kiến của các bậc vị vọng trong giáo hữu, người ta đã cho các chú đi đường bộ trước chúng tôi vào xứ Nước Mặn rồi, với một ông nào đó là người dạy các chú biết đọc và biết viết tiếng bản xứ. Tin này khiến chúng tôi phải trở lại con thuyền của chúng tôi. Bằng đường biển, chúng tôi sẽ đi gặp các chú, nhưng chẳng được mau lẹ như chúng tôi mong ước, bởi vì thời tiết xấu đã cản chân chúng tôi.Chúng tôi ở lại một thời gian tại cửa biển Nước Mặn để chuẩn bị tất cả những gì liên quan tới chuyến trở về Xiêm La. Chúng tôi chấp nhận một con thuyền giống như con thuyền đã chở chúng tôi tới Đàng Trong. Trong lúc người ta sửa soạn con thuyền, Đức cha Bêrytê đi viếng thăm các nơi khác nhau, nơi nào giáo dân cũng rất đông đảo.


Cha chính xứ Nước Mặn.

Giáo dân không còn biết diễn tả niềm vui của họ như thế nào khi họ nhìn thấy vị giám mục của họ mạnh khỏe, sau khi đã từng thấy ngài cận kề với cái chết. Phép thêm sức, phép giải tội và phép Mình Thánh Chúa là công việc liên tục suốt 8 ngày trời, cả ngày cả đêm, bởi vì gần như đừng phải nghĩ tới chuyện nghỉ ngơi một chút nào. Chúng tôi gửi đi 6 chứng thư, cho các thầy giảng cũng như cho những người khác là những người không có tước vị thầy giảng nhưng được đặt đứng đầu các nhà thờ nào đó. Và để cho niềm vui của những người dân này được trọn vẹn, Đức cha Bêrytê đặt cha Giuse, linh mục người Việt, tại giáo xứ chính của họ, để ngài làm cha chính xứ. Ngài còn cho cha thêm, ngoài nhiệm vụ đặc biệt trên, quyền quản nhiệm tổng quát toàn xứ (Nước Mặn). Vị công nhân đáng kính này là người được vinh dự làm linh mục người xứ Đàng Trong tiên khởi. Chắc hẳn, ngài đã nhận lãnh được những hoa quả đầu mùa trong tinh thần linh mục. Ngài là người mang một lòng nhiệt thành nóng bỏng, một đức cẩn thận hiếm có, và một sức làm việc không thể tưởng tượng được. Lòng bác ái của ngài làm cho ngài vui vẻ chịu đựng được tất cả mọi tật xấu của dân tộc ngài. Tính hiền hòa của ngài khiến ngài nên dễ cảm mến đối với tất cả mọi người. Đức khiêm nhường của ngài làm cho chính ngài phải khổ cực lắm khi chịu đựng chính con người mình. Đức vâng lời của ngài làm ngài phục tùng cách tuyệt đối các bề trên của ngài ; cho dù ở nhiều nơi, người ta đã tha thiết muốn có được ngài làm vị mục tử chăn dắt họ, ngài không hề bao giờ tỏ ra ước muốn nào khác hơn là được thi hành ý muốn của vị giám mục của ngài.


Một người thuộc dòng dõi nhà vua.

Sau khi đã nêu ra một chứng từ nhỏ cho một người xứng đáng mà tôi là chứng nhân nhãn tiền, tôi phải nói ra rằng trong lúc Đức cha Bêrytê đi đây đi đó thì tôi, theo lệnh ngài, phải ở lại nơi chúng tôi đã cập bến với tất cả những chú học trò của chúng tôi và với cả ông thầy giảng là người đã giúp tôi trong xứ Quảng Ngãi. Lúc ấy, chúng tôi đang ở vào những ngày đầu tiên của Mùa Chay. Và sự thánh thiện của Mùa Chay đã làm tăng thêm lòng sốt mến của các tín hữu các vùng lân cận. Họ đã tụ họp lại thành từng đoàn bên cạnh tôi. Trong vòng 7 ngày, chúng tôi đã rửa tội cho nguyên một gia đình, ngoài một vài cá nhân ra. Trong số họ, tôi vô cùng cảm kích về một vị quý tộc trẻ 28 tuổi là người được coi là có họ hàng với nhà vua và là người có nhiệm vụ lo các binh đoàn của nhà vua.Đã từ lâu, anh ta tha thiết xin được ân huệ này, anh ta đã tới gặp nhiều thầy giảng. Các thầy đều từ chối mà không dám thổ lộ gì với anh ta cả, vì các thầy sợ anh ta lợi dụng cái dễ dàng của các thầy để làm hại giáo hữu. Nhưng anh ta chẳng hề trách oán ai, âm thầm tìm biết được nơi tôi đang ở, anh ta đến trình bày cho tôi niềm ao ước của anh. Tôi dò xét anh theo tất cả khả năng của tôi xem anh có thực sự thành tâm không. Tôi còn hỏi anh ta xem anh có được học biết về các mầu nhiệm đạo chúng ta không. Tôi đã viết cho Đức cha Bêrytê những điều tôi nghĩ về lòng thành và về các đức độ khác nơi vị quý tộc trẻ tuổi này. Ngài nói tôi hãy rửa tội cho anh ta mà không phải hãi sợ chi. Tôi đặt tên cho anh ta trên giếng nước rửa tội là Phê Rô.


Một dự tính.

Sau đó, anh tân tòng ấy tin tưởng tôi đến độ cởi mở tâm hồn anh ra với tôi một cách thật đơn sơ chân thật. Anh nói với tôi rằng anh cảm thấy rất bị lôi cuốn hiến thân cho Thiên Chúa cách đặc biệt. Anh thấy nhiều nguy hiểm khi trở lại triều đình là nơi anh đã thoát ra khỏi. Ngay khi anh trở về, cha mẹ anh là người có những trách nhiệm hàng đầu tại triều đình, sẽ có thể dùng uy tín bên cạnh nhà vua và quyền bính trên anh mà bắt anh nhận một nhiệm vụ nào đó không thích hợp với việc giữ đạo. Bởi vì, vào một số dịp, những công vụ ấy đòi hỏi anh phải tuyên xưng ngoại giáo như những người khác, hoặc là bị kết tội phản nghịch lại nhà vua.Tôi đề nghị mang anh theo vào số các chú học trò của chúng tôi, và Đức cha Bêrytê đồng ý điều ấy. Nhưng vào lúc chúng tôi khởi hành, anh bị lên cơn nóng sốt suốt mấy ngày trời nên anh không thể theo chúng tôi sang Xiêm La được.Thiên Chúa đã cho phép như vậy để tránh cái ác hại có thể xảy đến từ chuyện trên. Bởi vì luật pháp xứ Đàng Trong kết án tử hình binh sĩ nào ra khỏi vương quốc mà không có phép của nhà vua. Anh ta hẳn nhiên là sẽ gặp nguy hiểm lớn bị nhận diện và bị bắt giữ bởi một vị sứ thần đất nước anh mà chúng tôi đã gặp, và thậm chí vị sứ thần này còn dám chửi bới chúng tôi nữa khi chúng tôi về tới bến cảng Xiêm La, như sẽ thấy ở chương sau đây.


<>

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire