samedi 20 février 2010

Ký Sự của cha Vachet : ch. 2/11

Đức cha Lambert viếng thăm Đàng Trong lần đầu
(Ký Sự của cha Vachet)


Chương II
Tới Đàng Trong


Niềm vui lúc đến nơi.
Chúng tôi dễ dàng quên hết những hiểm nguy và mệt nhọc trong chuyến đi, nhờ niềm an ủi thấy mình vào tới một vương quốc nơi mà chúng tôi sẽ gặp một trong những công cuộc truyền giáo rực rỡ nhất của chúng tôi. Giây phút đầu tiên vui mừng đó đủ để trả cho chúng tôi những vất vả từ Pháp cho tới đây.
Ông Mô Sê, người tôi tá cao cả của Thiên Chúa, sau bao nhọc nhằn để chiếm lấy Đất Hứa, thì chỉ được nhìn thấy mảnh Đất Hứa ấy mà thôi. Và còn bao nhiêu người cao trọng, vì một dự đồ cũng như chúng tôi, đã từ bỏ sản nghiệp của họ, gia đình của họ, quê hương của họ và niềm hy vọng của họ, mà chẳng có được niềm vui đạt tới cùng đích lòng ước vọng của mình ? Có kẻ thì bỏ mạng trong những mảnh vụn vỡ của con tàu, có kẻ khác thì chết chìm vì tai nạn, người này thì bị bắt tù đầy và làm nô lệ, kẻ khác thì bị quân cướp tàn sát, hay bị thú dữ ăn thịt sau khi bị bão tố ném lên những hòn đảo xa vắng hay trên những bãi biển hoang vu.
Thực sự thì giữa những bất hạnh đó, họ không kém phần hạnh phúc trước mặt Thiên Chúa so với những kẻ đã thành tựu được cuộc hải hành của họ. Bởi chưng, thực tình là họ đã kết thúc cuộc đời của họ đang lúc thi hành những mệnh lệnh của Đấng Quan Phòng. Nhưng sau tất cả, cứ xét những sự việc theo bề ngoài và theo những cái lợi thực tế khi làm việc cho sáng danh Chúa Giêsu Kitô giữa những dân ngoại, tôi nói phải thú nhận rằng là một ân huệ đặc biệt cho chúng tôi thoát được từng đấy hiểm nguy và sau chuyến đi cả sáu ngàn dặm đường, vẫn còn khả năng làm những phận vụ tông đồ trên một phần đất xa lạ.

Vào đất Đàng Trong.
Suy nghĩ ấy an ủi chúng tôi vô biên, cho dù chúng tôi vẫn lo sợ cách chính đáng bị khám phá ra lúc đến nơi, và bị dẫn tới nhà vua hay các quan lại. Để tránh tai họa đó là tai họa có thể làm Giáo Hội yêu dấu này rơi vào cuộc bách đạo, chúng tôi chọn một nơi an toàn để cập vào bờ lúc ban đêm và một cách kín đáo. Một trong các linh mục người Việt đi đưa tin chúng tôi tới cho một vài giáo dân đầu mục hay. Ngày hôm sau, cha trở lại vào khoảng 10 giờ sáng, cùng với một thầy giảng và một kẻ giảng và hai người khác của một làng tên là Lâm Tuyền. Họ vui mừng không kém gì chúng tôi.
Những người dân đáng thương này chưa hề bao giờ thấy một giám mục ; hơn nữa, họ lại không có mục tử nào từ ngày cha Hainques và cha Brindeau qua đời. Họ như thấy hai vị mục tử quá cố đó sống trở lại qua con người chúng tôi. Từ chỗ đó, người ta có thể hiểu được tình cảm nào trong trái tim của họ.
Sau khi đã bàn luận với họ về điều phải làm, quyết định chung là chúng tôi hãy ẩn mình trong con thuyền suốt ngày hôm đó và vào quãng 7 giờ tối, chúng tôi sẽ rời thuyền đi xa biển một dặm đường tới nhà một giáo dân là người đã tới gặp chúng tôi. Các giáo dân khác có thói quen tụ họp lại nhà ông ta vào các ngày chúa nhật và các ngày lễ.
Nhưng trước tất cả mọi sự, nếu có thể được, phải lo liệu tránh hai điều phiền phức sau : phải tránh sao đừng để con thuyền của chúng tôi bị chận giữ tại hải quan, (vì người ta ắt sẽ biết chúng tôi là ai khi khám xét những đồ lễ của chúng tôi), và tránh sao đừng để quan trấn xứ [quan tỉnh trưởng] là người ngoại giáo, nghe nói đến chúng tôi. Chỉ có mình Thiên Chúa mới có thể bảo đảm chúng tôi khỏi tai họa này hay tai họa nọ, bằng một sự che chở đặc biệt đối với tất cả những giải pháp do sự cẩn thận nhỏ bé của chúng tôi đưa ra. Chính trong những tình huống này mà chúng tôi mới cảm nghiệm được sự trợ giúp tỏ tường từ Trời Cao. Quả vậy, thật đáng lo sợ trước biết bao nhiêu là con người mà chúng tôi có thể làm họ sinh nghi ngờ, cho dù chúng tôi dè giữ đến đâu đi chăng nữa.

Rời con thuyền.
Để rời thuyền cách âm thầm, theo lệnh của các thầy giảng, một vài con thuyền bầu của giáo dân ban đêm đã tới cạnh con thuyền của chúng tôi. Họ chất vào thuyền của họ các gói hành lý của chúng tôi và họ dễ dàng được xem như những ngư phủ đi đánh cá trở về. Người ta đặt lên con thuyền chúng tôi những thủy thủ xa lạ là những người sẽ không bị khám xét cũng không bị bắt giữ tại hải quan, cũng như các thủy thủ khác. Về phần chúng tôi, người ta cho chúng tôi đi đường bộ, Đức cha Bêrytê thì được khiêng đi trong võng có màn che, và cha Mahot và tôi thì đi bộ theo sau, ăn mặc theo kiểu người dân Đàng Trong.
Theo cách đó, chúng tôi vào nhà người giáo dân tốt lành ngày thứ nhất tháng chín năm 1671, khoảng hai tháng sau khi chúng tôi khởi hành từ Xiêm La. Tôi đã xem nhà đó như giáo xứ đầu tiên của Đàng Trong, tại vì chúng tôi gặp ở đấy một số đông đảo tín hữu khao khát các bí tích. Người ta tính được hơn 800 người làm thành đoàn chiên nhỏ này. Tất cả đều lần lượt đến lãnh nhận phép lành của giám mục của họ mà họ gọi bằng ngôn ngữ của họ là Cha Cả. Chúng tôi thì không thể nào giải tội cho họ được, điều mà chúng tôi rất lấy làm buồn tiếc. Tôi thì chẳng có một chút ý niệm nào về tiếng xứ Đàng Trong ; còn về phần Đức cha Bêrytê và cha Mahot, thì phải chờ hơn một tháng trời sau các ngài mới nói và nghe tiếng Đàng Trong cách đầy đủ. Để an ủi chúng tôi với họ, chúng tôi hứa với họ sẽ trở lại trong vòng hai tháng nữa lúc chúng tôi đã có khả năng giúp đỡ họ.

Tình trạng tôn giáo.
Lời nói trên của chúng tôi với lòng thành thực đã làm họ an tâm một chút. Nhưng chúng tôi không thể nào xin được họ rút lui đi và đừng tụ họp lại đông đảo. Lòng đói khát Phúc Âm nơi họ không cho phép họ rời xa khỏi những người từ rất xa xôi đến cho họ thưởng nếm hương vị ngọt ngào của Phúc Âm. Họ mong muốn ít nữa là trông thấy những người này, bởi vì những người này chưa thể nói chuyện với họ được.
Chẳng biết sao, tất cả những gì tôi nhìn thấy nơi họ đã khiến tôi có ý tưởng nào đó về Giáo Hội sơ khai : tất cả họ đối với tôi như chỉ có một con tim và một tâm hồn, họ tương trợ nhau như anh em, họ nâng đỡ nhau trong tất cả những sự cần thiết, họ hiểu biết rõ tất cả những gì liên quan tới đức tin và phong hóa của đạo thánh chúng ta, trừ ra những Điều Răn Hội Thánh mà cho tới lúc đó họ chưa từng nghe nói đến. Với một sự trung thành đáng ca ngợi, họ thực hành tất cả những gì họ học được từ các thầy giảng. Sự săn sóc và canh chừng của các thầy giảng đã giữ gìn họ trong sự trong trắng và trong niềm đoàn kết chặc chẽ với nhau.
Những trẻ em nhận được hoa quả đầu tiên của sứ vụ truyền giáo. Chúng tôi ban phép thêm sức cho trên 200 em với một vài người lớn mà các linh mục người Việt đã giải tội cho. Nhiều người ngoại xin được rửa tội, nhưng chúng tôi chỉ ban phép rửa tội cho những ai chúng tôi thấy đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, và những người khác thì được lưu lại cho tới khi nào họ có khả năng hơn nhờ thừa tác vụ của các thầy giảng. Tuy nhiên, vì Đức cha Bêrytê biết tầm quan trọng phải dạy dỗ chu đáo các kẻ ngoại tân tòng trước khi rửa tội cho họ, ngài nghĩ rằng không phải giao phó việc này cho riêng các thầy giảng. Vì cẩn thận và vì nhiệt thành, ngài để lại nơi này một thừa sai với cha Luca, linh mục người Việt, chăm lo cho những kẻ đã là Kitô hữu trong khắp các vùng này (mà con số lên tới 3.000 người, tính luôn cả các làng mạc lân cận) ; và cũng để hai ngài gặt hái lấy hoa quả mà Đấng Quan Phòng hứa ban trong một thời gian ngắn tới đây, nếu được vun xới. Bởi vì người ta có thể vui mừng rằng gần như không có người dân ngoại nào mà không muốn nghe giảng dạy giáo lý đức tin ; và những kẻ vị vọng nhất chắc hẳn không những đã nghe mà lại đã đón nhận đức tin với trọn tấm lòng, nếu như họ không bị ngăn trở vì một vài lợi lộc bất hạnh mà ơn thánh Chúa sẽ giúp họ thoát khỏi với thời gian.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire