ngày 30.11.2009
(vicariat, diocèse)
1. Giáo phận tông tòa :
Giáo phận tông tòa (vicariat apostolique) là phần đất không có giám mục riêng, nằm trực tiếp dưới quyền điều hành của Đức Giáo Hoàng với tư cách « giám mục toàn cầu » (évêque universel). Đức Giáo Hoàng quen gửi một vị đại diện thay mặt ngài đến nơi đó lo việc điều hành cho ngài. Vị đó thường là một giám mục và được gọi là « đại diện tông tòa » (vicaire apostolique).
« Tước hiệu » cho vị giám mục đại diện tông tòa lấy từ tên một tòa giám mục nào đó đã có ngày xưa mà nay không còn nữa.
Giám mục đại diện tông tòa không có ngai tòa (siège) riêng, cũng không có nhà thờ chính tòa (cathédrale).
Trên nguyên tắc, giáo phận tông tòa là một thứ giáo phận tạm thời, cho dù trong thực tế có thể kéo dài cả hằng thế kỷ.
2. Giáo phận chính tòa :
Khác với giáo phận tông tòa, giáo phận chính tòa (diocèse) có giám mục riêng. Và vị giám mục chính tòa có quyền trực tiếp điều hành giáo phận của ngài, Đức Giáo Hoàng không trực tiếp điều hành giáo phận chính tòa.
Tước hiệu của giám mục chính tòa lấy từ chính tên giáo phận của ngài.
Trong mỗi giáo phận phải có một nhà thờ chính tòa (cathédrale), tức nhà thờ của giám mục, nơi đặt ngai tòa của giám mục.
3. Giáo luật liên quan :
Cũng nên biết qua về giáo luật :
- Điều 368 xác định rằng giáo phận tông tòa cũng đã là một Giáo Hội địa phương y như giáo phận chính tòa vậy.
- Điều 371.1 định nghĩa giáo phận tông tòa là gì.
Ðiều 368: Các Giáo Hội địa phương, trong đó và từ đó mà một Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu, ám chỉ trước hết là các giáo phận ; các lãnh thổ thuộc giám hạt tòng thổ và đan viện tòng thổ, Ðại Diện Tông Tòa và Phủ Doãn Tông Tòa và cả Giám Quản Tông Tòa được thiết lập cách thường trực cũng được đồng hóa với các giáo phận, trừ khi đã rõ cách nào khác.
(c.368 : Les Eglises particulières dans lesquelles et à partir desquelles existe l’Eglise catholique une et unique sont en premier lieu les diocèses auxquels sont assimilés, sauf s’il s’avère qu’il en va autrement, la prélature territoriale et l’abbaye territoriale, le vicariat apostolique et la préfecture apostolique, ainsi que l’administration apostolique érigée de façon stable.)
Ðiều 371: (1) Hạt Ðại Diện Tông Tòa, hoặc Hạt Phủ Doãn Tông Tòa, là một phần nhất định của dân Chúa, mà vì hoàn cảnh đặc biệt, chưa được thiết lập như là một giáo phận, và việc chăn dắt được giao cho một Ðại Diện Tông Tòa hoặc cho một Phủ Doãn Tông Tòa để quản trị thay mặt Ðức Thánh Cha.
(c. 371.1 : Le vicariat apostolique ou la prélature apostolique est une portion déterminée du peuple de Dieu qui, à cause de circonstances particulières, n’est pas encore constituée en diocèse et dont la charge pastorale est confiée à un Vicaire apostolique ou à un Prélat apostolique qui la gouverne au nom du Pontife Suprême.)
4. Lấy ví dụ trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam :
Năm 1659, Đức Giáo Hoàng đã tách xứ Đàng Ngoài ra khỏi giáo phận chính tòa Macao (thiết lập năm 1576) mà lập thành giáo phận tông tòa Đàng Ngoài, và đã tách xứ Đàng Trong ra khỏi giáo phận chính tòa Malacca (thiết lập năm 1558) mà lập thành giáo phận tông tòa Đàng Trong. Ngài đã cử hai vị đại diện tông tòa sang điều hành hai giáo phận này là Đức cha Pallu và Đức cha Lambert.
Tước hiệu của Đức cha Pallu, đại diện tông tòa tại giáo phận Đàng Ngoài, là Heliopolis. Tước hiệu của Đức cha Lambert, đại diện tông tòa tại giáo phận Đàng Trong, là Bérytê. (Chữ « hiệu tòa » mà ta thường dùng có thể hiểu được là « tước hiệu ngai tòa giám mục »).
Từ từ với thời gian, tại Việt Nam, hai giáo phận tông tòa Đàng Ngoài và Đàng Trong được chia ra thành nhiều giáo phận tông tòa khác. Cho mãi đến năm 1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã lập các giáo phận tông tòa tại Việt Nam thành các giáo phận chính tòa. (Tính ra, từ ngày thành lập hai giáo phận tông tòa đầu tiên tới ngày thành lập các giáo phận chính tòa, đã 301 năm trôi qua.)
Tại Hà Nội lúc đó, nhà thờ Thánh Giuse trở thành nhà thờ chính tòa, đức cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê, giám mục hiệu tòa Synaitana trở thành giám mục Hà Nội, v.v..
Nhìn chung lại, Giáo Hội công giáo Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ tổ chức khác nhau :
A, Thời kỳ chưa có tên riêng : là thời kỳ bắt đầu có người tại Việt Nam được chịu bí tích Rửa Tội. Vào thời kỳ này, người công giáo Việt Nam thuộc giáo phận chính tòa Goa (thiết lập năm 1534).
B, Thời kỳ giáo phận tông tòa : từ năm 1659 cho tới năm 1960.
C, Thời kỳ giáo phận chính tòa : từ năm 1960 cho tới nay.
&
(Soạn bài thay cho Th.A., thứ Hai, ngày 30.11.2009)
(vicariat, diocèse)
1. Giáo phận tông tòa :
Giáo phận tông tòa (vicariat apostolique) là phần đất không có giám mục riêng, nằm trực tiếp dưới quyền điều hành của Đức Giáo Hoàng với tư cách « giám mục toàn cầu » (évêque universel). Đức Giáo Hoàng quen gửi một vị đại diện thay mặt ngài đến nơi đó lo việc điều hành cho ngài. Vị đó thường là một giám mục và được gọi là « đại diện tông tòa » (vicaire apostolique).
« Tước hiệu » cho vị giám mục đại diện tông tòa lấy từ tên một tòa giám mục nào đó đã có ngày xưa mà nay không còn nữa.
Giám mục đại diện tông tòa không có ngai tòa (siège) riêng, cũng không có nhà thờ chính tòa (cathédrale).
Trên nguyên tắc, giáo phận tông tòa là một thứ giáo phận tạm thời, cho dù trong thực tế có thể kéo dài cả hằng thế kỷ.
2. Giáo phận chính tòa :
Khác với giáo phận tông tòa, giáo phận chính tòa (diocèse) có giám mục riêng. Và vị giám mục chính tòa có quyền trực tiếp điều hành giáo phận của ngài, Đức Giáo Hoàng không trực tiếp điều hành giáo phận chính tòa.
Tước hiệu của giám mục chính tòa lấy từ chính tên giáo phận của ngài.
Trong mỗi giáo phận phải có một nhà thờ chính tòa (cathédrale), tức nhà thờ của giám mục, nơi đặt ngai tòa của giám mục.
3. Giáo luật liên quan :
Cũng nên biết qua về giáo luật :
- Điều 368 xác định rằng giáo phận tông tòa cũng đã là một Giáo Hội địa phương y như giáo phận chính tòa vậy.
- Điều 371.1 định nghĩa giáo phận tông tòa là gì.
Ðiều 368: Các Giáo Hội địa phương, trong đó và từ đó mà một Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu, ám chỉ trước hết là các giáo phận ; các lãnh thổ thuộc giám hạt tòng thổ và đan viện tòng thổ, Ðại Diện Tông Tòa và Phủ Doãn Tông Tòa và cả Giám Quản Tông Tòa được thiết lập cách thường trực cũng được đồng hóa với các giáo phận, trừ khi đã rõ cách nào khác.
(c.368 : Les Eglises particulières dans lesquelles et à partir desquelles existe l’Eglise catholique une et unique sont en premier lieu les diocèses auxquels sont assimilés, sauf s’il s’avère qu’il en va autrement, la prélature territoriale et l’abbaye territoriale, le vicariat apostolique et la préfecture apostolique, ainsi que l’administration apostolique érigée de façon stable.)
Ðiều 371: (1) Hạt Ðại Diện Tông Tòa, hoặc Hạt Phủ Doãn Tông Tòa, là một phần nhất định của dân Chúa, mà vì hoàn cảnh đặc biệt, chưa được thiết lập như là một giáo phận, và việc chăn dắt được giao cho một Ðại Diện Tông Tòa hoặc cho một Phủ Doãn Tông Tòa để quản trị thay mặt Ðức Thánh Cha.
(c. 371.1 : Le vicariat apostolique ou la prélature apostolique est une portion déterminée du peuple de Dieu qui, à cause de circonstances particulières, n’est pas encore constituée en diocèse et dont la charge pastorale est confiée à un Vicaire apostolique ou à un Prélat apostolique qui la gouverne au nom du Pontife Suprême.)
4. Lấy ví dụ trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam :
Năm 1659, Đức Giáo Hoàng đã tách xứ Đàng Ngoài ra khỏi giáo phận chính tòa Macao (thiết lập năm 1576) mà lập thành giáo phận tông tòa Đàng Ngoài, và đã tách xứ Đàng Trong ra khỏi giáo phận chính tòa Malacca (thiết lập năm 1558) mà lập thành giáo phận tông tòa Đàng Trong. Ngài đã cử hai vị đại diện tông tòa sang điều hành hai giáo phận này là Đức cha Pallu và Đức cha Lambert.
Tước hiệu của Đức cha Pallu, đại diện tông tòa tại giáo phận Đàng Ngoài, là Heliopolis. Tước hiệu của Đức cha Lambert, đại diện tông tòa tại giáo phận Đàng Trong, là Bérytê. (Chữ « hiệu tòa » mà ta thường dùng có thể hiểu được là « tước hiệu ngai tòa giám mục »).
Từ từ với thời gian, tại Việt Nam, hai giáo phận tông tòa Đàng Ngoài và Đàng Trong được chia ra thành nhiều giáo phận tông tòa khác. Cho mãi đến năm 1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã lập các giáo phận tông tòa tại Việt Nam thành các giáo phận chính tòa. (Tính ra, từ ngày thành lập hai giáo phận tông tòa đầu tiên tới ngày thành lập các giáo phận chính tòa, đã 301 năm trôi qua.)
Tại Hà Nội lúc đó, nhà thờ Thánh Giuse trở thành nhà thờ chính tòa, đức cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê, giám mục hiệu tòa Synaitana trở thành giám mục Hà Nội, v.v..
Nhìn chung lại, Giáo Hội công giáo Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ tổ chức khác nhau :
A, Thời kỳ chưa có tên riêng : là thời kỳ bắt đầu có người tại Việt Nam được chịu bí tích Rửa Tội. Vào thời kỳ này, người công giáo Việt Nam thuộc giáo phận chính tòa Goa (thiết lập năm 1534).
B, Thời kỳ giáo phận tông tòa : từ năm 1659 cho tới năm 1960.
C, Thời kỳ giáo phận chính tòa : từ năm 1960 cho tới nay.
&
(Soạn bài thay cho Th.A., thứ Hai, ngày 30.11.2009)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire